Chuyên gia lo ngại EVN có thêm quyền tăng nhưng không chủ động giảm giá điện

Mẹ và bé
Rate this post

Giá bán điện đang được xác định trên cơ sở giá bán lẻ điện bình quân do Chính phủ quy định, trên cơ sở tính toán tất cả các chi phí đầu vào (phát điện, truyền tải, phân phối, quản lý ngành …) nhằm đảm bảo ngành điện sinh lời để tái đầu tư. Giá bán lẻ điện sinh hoạt bình quân áp dụng là 1.864,44 đồng một kWh, được Chính phủ ấn định từ năm 2019 đến nay.

Theo quy định hiện hành tại Quyết định 24/2017, EVN chỉ được tăng giá điện nếu giá bán lẻ điện bình quân thực tế tăng từ 3%. Nhưng trong dự thảo đang lấy ý kiến, Bộ Công Thương đề xuất chỉ cần chỉ tiêu này tăng từ 1% thì EVN có thể tăng giá điện.

Mức tăng giá bán lẻ điện bình quân Thẩm quyền tăng giá điện
1-5% EVN tự quyết
5-10% EVN tham khảo ý kiến ​​của Bộ Công Thương
> 10% Thủ tướng

Dự thảo sửa đổi Quyết định 24 hiện đang lấy ý kiến ​​đóng góp

Với quy định như vậy, ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Tăng trưởng xanh, cho rằng EVN được cho là được trao quyền quyết định tăng giá với biên độ rộng hơn trước. Điều này giúp họ chủ động hơn khi có những yếu tố bất thường khiến giá thành, chi phí sản xuất tăng chóng mặt như thời gian gần đây.

Nhưng ông băn khoăn, không rõ bằng chứng cho thấy tính hợp lý của các con số tăng 1% hay 5% mà Bộ Công Thương đề xuất. “Các con số được tính toán trên cơ sở báo cáo của các doanh nghiệp, nếu không nêu rõ lý do tăng 1% là gì thì sẽ khó đưa ra mức tăng này”, ông Sơn nhận xét. .

-2060-1664335950.jpg? W = 680 & h = 0 & q = 100 & dpr = 1 & fit = crop & s = d8LOtkxAn-VC5Bk8o2z9TQ

Thợ điện sửa chữa các sự cố về đường dây điện. Ảnh: EVN

Mặt khác, thành phần để tính giá bán lẻ bình quân bao gồm nhiều yếu tố và chi phí. Có những yếu tố khách quan như chi phí nhiên liệu sản xuất điện (than, gas …) trên thị trường gần đây tăng chóng mặt, gấp 5 – 6 lần so với cùng kỳ năm trước khiến chi phí phát điện từ các nguồn điện đội lên. tăng, đặc biệt là giá mua điện từ các dự án nhà máy điện BOT.

“EVN buộc phải mua đúng giá, đúng giá từ các nhà máy điện BOT, không được” bao cấp “như với các nhà máy điện trong nước. Các chi phí này tự động được chuyển vào giá điện”, chuyên gia này nhận xét. .

Nhưng cũng có những yếu tố chủ quan từ phía doanh nghiệp, theo Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Tăng trưởng xanh, cần được rà soát, kiểm soát chặt chẽ, như chi phí quản lý, vận hành … “Cần quy định rõ các căn cứ, yêu cầu thẩm định việc tăng giá từ yếu tố nào (khách quan hay chủ quan) để đảm bảo minh bạch, tránh lạm dụng ”, vị này cho biết thêm.

Cũng giống như các dự thảo trước đây, mức tăng giá điện được quy định cụ thể, nhưng trường hợp giảm giá, theo các chuyên gia là mờ nhạt và chung chung.. Theo dự thảo, chi phí đầu vào làm giảm giá bán lẻ điện bình quân so với hiện hành nên EVN có trách nhiệm giảm giá bán lẻ điện bình quân theo tỷ lệ tương ứng.

Ông Hà Đăng Sơn đặt câu hỏi liệu giá điện có giảm ngay nếu chi phí đầu vào giảm 2% hay không. Ngoài ra, thời hạn áp dụng, cơ quan nào có thẩm quyền điều chỉnh mức giảm chưa được nêu rõ trong dự thảo. “Hay EVN có được giảm giá điện nếu giá giảm xuống dưới 5% hay phải xin ý kiến ​​các bộ, ngành liên quan?” anh ấy hỏi.

“Quy định về thẩm quyền càng rõ ràng, mức giảm cụ thể sẽ tránh được quan điểm giá điện chỉ tăng chứ không giảm, đảm bảo công bằng cho người tiêu dùng”, ông Hà Đăng Sơn nói.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Văn Vỵ, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng cho rằng, cơ chế điều chỉnh giá của cơ quan quản lý nhà nước cần xác định rõ thẩm quyền, giảm giá cụ thể, tương tự như quy định tăng.

Các chuyên gia cũng nhận xét, thời điểm điều chỉnh giá điện, dự thảo quy định từ ngày 1-10 hàng năm có biến động giá là chưa hợp lý.

Tháng 10 bắt đầu vào dịp tăng tốc sản xuất cuối năm của hầu hết các doanh nghiệp. Việc tăng giá vào thời điểm này đột ngột sẽ làm tăng chi phí của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cả năm.

“Bộ Công Thương cần đánh giá tác động của việc chọn thời điểm tăng hoặc có thể công bố điều chỉnh giá điện vào ngày 1/10 của năm có biến động giá nhưng phải từ đầu năm sau mới có hiệu lực”, ông nói.

Điều này nhằm tránh xáo trộn, giúp doanh nghiệp và người dân không bị bất ngờ, chủ động tính toán kế hoạch kinh doanh chung cho năm sau.

Giá bán lẻ điện bình quân là 1.864,44 đồng một kWh đã được quy định cứng trong 3 năm qua. Điều này khiến chi phí của EVN bị “nén” trong khi chi phí sản xuất điện chiếm hơn 82% cơ cấu giá tăng mạnh do giá nhiên liệu, chi phí đầu vào (tỷ giá, chi phí) mua điện trên thị trường điện. ..) leo thang.

Giá bán lẻ điện thực tế bình quân do EVN tính toán đến năm 2022 là 1.915,59 đồng / kWh (không bao gồm chênh lệch tỷ giá của các hợp đồng mua bán điện còn lại giai đoạn 2019-2021 của các đơn vị phát điện). . Mức này cao hơn 2,74% so với giá bán lẻ điện bình quân áp dụng kể từ năm 2019.

Trong tháng 6, cập nhật dữ liệu thông số đầu vào (tỷ giá, giá nhiên liệu) của khâu phát điện và chênh lệch tỷ giá còn lại năm 2019, chênh lệch tỷ giá 2020-2021, giá bán lẻ điện bình quân hàng năm hiện nay khoảng 2.091,23 đồng một kWh, tăng trên 12% so với giá bán lẻ điện bình quân hiện hành. Nếu không tính chênh lệch tỷ giá, giá bán lẻ điện năm 2022 sẽ tăng 9,67% so với giá bán lẻ hiện hành. Đây là nguyên nhân khiến bức tranh tài chính nửa đầu năm của tập đoàn này không mấy khả quan khi ghi nhận khoản lỗ hơn 16.500 tỷ đồng.

Trong bối cảnh nhiều nước đang phải chống chọi với tình trạng thiếu hụt và giá năng lượng tăng cao, theo ông Hà Đăng Sơn, bài toán khó của EVN là phải cân đối giữa các loại hình phát điện để đảm bảo cung và cầu. cung cấp đủ điện, đồng thời không phá vỡ các hợp đồng hiện có, giữ giá cả trong tầm kiểm soát …

Anh minh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *