Nguyên nhân và cách điều trị

Mẹ và bé
Rate this post

Theo DS. Nguyễn Thị Trang, chứng đau nửa đầu xuất phát từ tiếng Hy Lạp hemicrania, có nghĩa là “đau một bên đầu”. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xếp chứng đau nửa đầu ở vị trí thứ 19 trong số các bệnh gây tàn phế trên toàn thế giới.

Đau nửa đầu là một rối loạn phức tạp do ảnh hưởng của di truyền, đặc trưng bởi những cơn đau đầu từ vừa đến nặng, thường là một bên và kèm theo buồn nôn, nhạy cảm với ánh sáng và âm thanh.

Chứng đau nửa đầu có thể nghiêm trọng đến mức gây ra đau đớn và làm giảm chất lượng cuộc sống của những người bị ảnh hưởng. Nó có thể xảy ra thường xuyên hoặc vài lần mỗi tháng với tần suất khác nhau ở mỗi người.

Phụ nữ có nguy cơ bị chứng đau nửa đầu cao gấp ba lần so với nam giới. Xu hướng mắc chứng đau nửa đầu thường do di truyền.

Đau nửa đầu: Nguyên nhân và cách điều trị - Ảnh 1.

Hình minh họa (Internet).

Nguyên nhân và triệu chứng

Theo BS. Lê Anh Tiến, đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây ra bệnh đau nửa đầu. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy có sự giãn nở của các mạch máu não và giải phóng các chất hóa học như serotonin và dopamine, gây rối loạn chức năng não dẫn đến đau đầu nghiêm trọng.

Tuy đây là bệnh tự phát nhưng ở một số người lại có một số yếu tố có thể làm khởi phát cơn đau nửa đầu như: Tinh thần căng thẳng, mất ngủ; thay đổi nồng độ hormone sinh dục nữ trong máu (thường liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt hoặc uống thuốc tránh thai …); Thay đổi thời tiết; nhấp nháy ánh sáng chói; tiếng ồn; chấn thương đầu; khói thuốc lá; nước hoa đậm đặc; mùi nồng khó chịu; sô cô la, phô mai, đồ hộp, bột ngọt, đường hóa học, rượu …

Đây là căn bệnh rất phổ biến ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của người mắc phải. Điều tra tại các cộng đồng trên thế giới cho thấy tỷ lệ hiện mắc khoảng 15% ở nữ và 5% ở nam. Hơn 75% những người bị chứng đau nửa đầu cũng sẽ có người trong gia đình của họ. Bệnh thường bắt đầu ở tuổi thanh thiếu niên. Độ tuổi thông thường là từ 20 đến 50 tuổi. Hiếm khi bắt đầu sau 60 tuổi.

Đau nửa đầu thường là những cơn đau từng cơn với cường độ trung bình hoặc nặng. Cơn đau có thể xuất hiện ở một hoặc cả hai bên đầu hoặc xoay từ bên này sang bên kia. Cơn đau có cường độ khác nhau từ nhẹ (thoáng qua) đến nặng và kéo dài từ vài giờ đến vài ngày.

Đau đầu có thể xảy ra đột ngột hoặc có các triệu chứng báo trước như: Chóng mặt, mờ mắt, hoa mắt, ù tai, nhìn đôi, nói khó, tê da đầu. Người bệnh sẽ cảm thấy cơn đau nặng hơn khi người bệnh gắng sức: Di chuyển, ho, hắt hơi hoặc thay đổi tư thế của đầu …

Sau cơn đau đầu, người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, uể oải, buồn ngủ.

Đau nửa đầu: Nguyên nhân và cách điều trị - Ảnh 2.

Hình minh họa (Internet).

Thuốc điều trị bệnh gì?

Theo DS. Nguyễn Thị Trang, để điều trị chứng đau nửa đầu cần lựa chọn phương pháp điều trị dựa trên các tình huống khởi phát cấp tính hay mãn tính.

Điều trị cấp tính nhằm ngăn chặn sự tiến triển của cơn đau đầu, bao gồm các tùy chọn phân tầng:

NSAID (thuốc chống viêm không steroid): Ibuprofen, naproxen, diclofenac, aspirin hoặc acetaminophen. Thông thường trong các cơn nhẹ đến trung bình không có cảm giác buồn nôn hoặc nôn.

Triptan: Sumatriptan, eletriptan, rizatriptan, almotriptan. Có hoặc không có naproxen đối với cơn đau vừa đến nặng. Triptans nên được giới hạn dưới 10 ngày sử dụng trong vòng một tháng để tránh lạm dụng thuốc.

Nó không được khuyến khích sử dụng thuốc ở bệnh nhân đột quỵ do thiếu máu cục bộ, bệnh tim thiếu máu cục bộ, tăng huyết áp, đau thắt ngực, mang thai. Ở những bệnh nhân này, có nguy cơ tim mạch, thuốc thích hợp nhất là chất chủ vận thụ thể serotonin 1F chọn lọc, không gây co mạch, lasmiditan.

Nên theo dõi điều trị nếu bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin hoặc thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin-noradrenaline vì nguy cơ mắc hội chứng serotonin.

Thuốc chống nôn: Metoclopramide, chlorpromazine, prochlorperazine được sử dụng như liệu pháp bổ trợ cho NSAID hoặc triptan để giảm buồn nôn và nôn, đặc biệt là trong phòng cấp cứu.

Dexamethasone có thể làm giảm sự tái phát của các cơn đau đầu ở giai đoạn đầu, nhưng không giúp giảm đau đầu ngay lập tức.

Điều trị dự phòng nhằm mục đích giảm tần suất và cải thiện khả năng đáp ứng với mức độ nghiêm trọng và thời gian của cơn đau cấp tính, đồng thời giảm thiểu tình trạng tàn tật.

Thuốc phòng ngừa, bao gồm:

Thuốc chẹn beta: Metoprolol và propranolol.

Thuốc chống trầm cảm: Amitriptyline và venlafaxine.

Thuốc chống co giật: Acid valproate và topiramate.

Thuốc chẹn kênh canxi: Verapamil và flunarizine.

Thuốc đối kháng peptide liên quan đến gen calcitonin: Eerenumab, fremanezumab và galcanezumab.

Các loại thuốc này cần được sử dụng dưới sự chỉ định của bác sĩ, người bệnh tuyệt đối không được tự ý sử dụng sẽ rất nguy hiểm. Một đợt dùng thuốc dự phòng thường kéo dài từ 3-6 tháng. Khi sử dụng các loại thuốc này, người bệnh có thể gặp các tác dụng phụ như tụt huyết áp, mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa, gặp ác mộng, ngủ không ngon giấc … Nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào khi dùng thuốc, người bệnh cần liên hệ ngay với bác sĩ để được tư vấn cách dùng thuốc tiếp theo.

Ngoài ra, Để hạn chế cơn đau, cần thực hiện: Thay đổi lối sống; Thường xuyên tập thể dục, yoga; Kiểm soát các tác nhân gây đau đầu.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *