Phòng cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp

Làm Đẹp
Rate this post

Theo tính toán của chúng tôi, cơ cấu vốn nền kinh tế năm 2021, vốn tín dụng ngân hàng chiếm 47%, vốn huy động từ thị trường chứng khoán thông qua IPO, thông qua phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu. và thông qua bán cổ phần dưới nhiều hình thức khác chỉ chiếm khoảng 3,2%.

Dư địa cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Ảnh 1.

Tuy nhiên, thị trường trái phiếu đã trở thành kênh dẫn vốn quan trọng khi chiếm khoảng 21,5% tổng cung vốn cho nền kinh tế. Như vậy để thấy, chúng ta vẫn là một nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống ngân hàng.

Vấn đề bây giờ là, thị trường trái phiếu đang thu hẹp và hạ nhiệt rõ ràng. Điều này có thể thấy qua việc quy mô phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong 4 tháng đầu năm giảm theo đối tượng, đặc biệt là việc không có doanh nghiệp BĐS phát hành thêm trái phiếu trong tháng 4 và số lượng đợt phát hành. chỉ bằng một nửa so với cùng kỳ năm ngoái.

Vì vậy, việc giảm số lượng có phải là một tin tích cực? Nguồn vốn trung và dài hạn nào để doanh nghiệp có thể phục hồi và phát triển trong thời gian sắp tới là câu hỏi được nhiều người quan tâm.

Trong khi đó, hệ thống ngân hàng thực chất phục vụ mục đích cho vay ngắn hạn, nhưng hệ thống ngân hàng gần đây gặp khó khăn trong việc cho vay trung dài hạn, chiếm khoảng 40 – 50% tổng dư nợ. choáng ngợp với hệ thống ngân hàng thương mại.

Vì vậy, tôi nhấn mạnh, kênh dẫn vốn thông qua thị trường trái phiếu trung và dài hạn hay thị trường cổ phiếu là vô cùng quan trọng. Vấn đề cần được quy định là quản lý như thế nào để phát triển lành mạnh và bền vững hơn.

Dư địa cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp - Ảnh 2.

Diễn đàn Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiệu quả và bền vững do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức.

Về cơ cấu hoạt động, ngành bất động sản tuy có giảm phát hành nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là ngân hàng và xây dựng, còn lại là các ngành khác. Riêng ngành ngân hàng chủ yếu phát hành trái phiếu để tăng vốn cấp hai cho vốn chủ sở hữu, qua đó đáp ứng tiêu chuẩn quản lý rủi ro an toàn vốn Basel II theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước.

Về nhà đầu tư, năm 2021, tổ chức tín dụng chiếm khoảng 25%, công ty chứng khoán chiếm khoảng 26-27% và đối với nhà đầu tư khác.

Về kỳ hạn và lãi suất, có nhiều ý kiến ​​cho rằng lãi suất trái phiếu rất cao, nhưng điều đó không hoàn toàn đúng, vì đâu đó khoảng 8 – 10%. Tuy nhiên, thời hạn không dài, chủ yếu là 3-5 năm. Vì vậy, trong 3 năm qua các doanh nghiệp phát hành trái phiếu thì năm nay sẽ là một năm khó khăn do doanh nghiệp phát hành sẽ phải trả nợ rất nhiều.

Về hình thức tài sản đảm bảo, nhiều quan điểm đề cập đến “trái phiếu ba không”. Thực tế cho thấy, có trường hợp không có tài sản đảm bảo nhưng chỉ chiếm khoảng 18%, còn lại là tài sản đảm bảo nhưng dưới hình thức khác như cổ phần, tài sản hình thành trong tương lai, hoặc có thể là một phần tài sản khác.

Về mặt pháp lý, trong những năm gần đây, Việt Nam đã có Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, đây là hai luật có vai trò quan trọng, chi phối việc phát hành trái phiếu. Cùng với đó là các Nghị định 163/2018, Nghị định 81 và cuối cùng là Nghị định 153/2020, tới đây là Nghị định 153 sửa đổi.

Giải pháp cho thị trường

Để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển lành mạnh và bền vững, cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, về cách tiếp cận vừa tạo sự phát triển cho thị trường, vừa kiểm soát rủi ro, trước mắt cần giải quyết dứt điểm những “tranh cãi” vừa qua để củng cố niềm tin cho nhà đầu tư cũng như tránh đặt ra tiền lệ xấu.

Thứ hai, cần sớm hoàn thiện khung pháp lý phù hợp như: Sửa đổi Nghị định 153 / NĐ-CP (2020) về phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, Nghị định 156 (2020) về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; …

Thứ ba, cần có quy định về xếp hạng tín nhiệm để giúp nhà đầu tư dễ dàng xác định chất lượng của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của trái phiếu đã phát hành.

Thứ tư, có giải pháp nâng cao chất lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp thông qua việc xem xét các quy định cụ thể hơn về quy mô, tần suất và điều kiện phát hành; Hoạt động phát hành ra công chúng cần được hỗ trợ và tạo điều kiện (đơn giản hóa quy trình, rút ​​ngắn thời gian xử lý hồ sơ …).

Thứ năm, cải thiện cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp như thiết lập thị trường thứ cấp tập trung cho trái phiếu doanh nghiệp, quy định việc áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế; nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu …

Thứ sáu, phát triển nền tảng nhà đầu tư chứng khoán đa dạng và chuyên nghiệp; khuyến khích phát triển các nhà đầu tư tổ chức như quỹ đầu tư, quỹ mở, quỹ hưu trí …; khuyến khích hình thức ủy thác đầu tư; nâng cao chất lượng của các nhà đầu tư cá nhân thông qua việc tăng cường giáo dục tài chính cho người dân và các nhà đầu tư mới; yêu cầu minh bạch thông tin đối với nhà đầu tư, đưa ra các sản phẩm phù hợp với nhà đầu tư cá nhân …

Thứ bảy, hoàn thiện cơ chế và nâng cao chất lượng quản lý, giám sát thị trường, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát trên cơ sở rủi ro chứ không chỉ hành chính.

TS CẦN VĂN Lực – Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính Tiền tệ Quốc gia

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *