Dấu hiệu ung thư vú giai đoạn cuối

Mẹ và bé
Rate this post

Ung thư vú và giai đoạn của nó

Theo Bs. Theo Phương Thúy, ung thư vú được chia thành 5 giai đoạn phát triển dựa trên số lượng tế bào ung thư và kích thước khối u, mức độ lây lan và di căn. Do bệnh ung thư vú diễn ra trong thời gian dài nên nếu phát hiện ở giai đoạn đầu thì khả năng chữa khỏi là rất cao.

Ở giai đoạn đầu, các tế bào bất thường mới bắt đầu xuất hiện trong các ống dẫn sữa, nó chưa xâm lấn nên chưa lây lan sang các mô của vú cũng như các mô xung quanh. Rất khó phát hiện ung thư vú ở giai đoạn đầu do người bệnh không có biểu hiện của bệnh. Chỉ có những trường hợp xét nghiệm sàng lọc hoặc chẩn đoán liên quan tình cờ phát hiện ra bất thường. Phát hiện ung thư vú ở giai đoạn đầu tiên lượng điều trị rất tốt, cơ hội chữa khỏi ung thư vú giai đoạn đầu rất cao, khoảng 90-100% các trường hợp. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp điều trị không tốt, ung thư vú không được loại bỏ hoàn toàn mà tiếp tục phát triển sang các giai đoạn sau.

Dấu hiệu khẳng định ung thư vú giai đoạn cuối

Các dấu hiệu nghi ngờ của ung thư vú

Ung thư vú giai đoạn 1 là giai đoạn đầu tiên của quá trình xâm lấn, nghĩa là lúc này các tế bào ung thư không còn nằm trong các ống tuyến vú mà đã lan sang các mô vú xung quanh. Các khối u ung thư cũng bắt đầu hình thành ở giai đoạn này, nhưng kích thước nhỏ hơn 2cm và chưa lan ra ngoài vú nên việc điều trị khá đơn giản. Tỷ lệ chữa khỏi khi phát hiện ung thư vú giai đoạn 1 tương đối cao, khoảng 80-90%.

Các tế bào ung thư vú giai đoạn 2 ở giai đoạn này chưa di căn đến các bộ phận khác của cơ thể. Người ta chia ung thư vú giai đoạn 2 thành 2 giai đoạn phát triển là 2A và 2B như sau:

Giai đoạn 2A: Khi ung thư tiến triển, không có khối u ung thư và có ít hơn 4 hạch bạch huyết liên quan. Ung thư nhỏ hơn 2cm, ít hơn 4 hạch nách là ung thư di căn. Khối u có kích thước từ 2 đến 5 cm nhưng chưa di căn đến các hạch bạch huyết.

Giai đoạn 2B: Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự di căn của các tế bào ung thư đến các hạch bạch huyết, với các đặc điểm sau: Khối u ung thư có kích thước 2 – 5cm, với các cụm tế bào ung thư nhỏ hình thành trong các hạch bạch huyết. bạch huyết. Khối u có kích thước từ 2 đến 5 cm và đã di căn đến dưới 4 hạch bạch huyết ở nách. Khối u có kích thước hơn 5cm nhưng chưa di căn đến các hạch bạch huyết.

Ung thư vú giai đoạn 2 có khối u phát triển khá nhanh, kích thước lớn và bắt đầu di căn đến các hạch bạch huyết, tuy nhiên tỷ lệ chữa khỏi khá cao.

Giai đoạn 3, ung thư vú đã lớn, di căn sang các hạch bạch huyết xung quanh. Tùy thuộc vào khối u ung thư và số lượng các hạch bạch huyết di căn, giai đoạn này được chia nhỏ thành ung thư vú 3A, 3B và 3C. Do di căn đến nhiều hạch, khối u ung thư cũng khá lớn nên việc điều trị ung thư vú giai đoạn này phức tạp hơn.

Ung thư vú giai đoạn 4 là giai đoạn phát triển cuối cùng của bệnh ung thư vú với đặc điểm là di căn mạnh đến các cơ quan trong cơ thể như não, gan, xương, phổi,… Giai đoạn 4 chưa có kết quả tốt, các phương pháp mới cho phép người bệnh kéo dài thời gian sống và tăng chất lượng cuộc sống của họ.

Theo Bs. Phương Thùy, việc xác định giai đoạn bệnh, thời gian tiến triển và di căn không thể định lượng được. Nhưng muốn xem bệnh ở giai đoạn nào thì cần phải xác định kích thước, vị trí và mức độ lan rộng của khối u. Xác định giai đoạn ung thư sẽ giúp xác định tiên lượng và về các lựa chọn điều trị tốt nhất. Dựa trên các xét nghiệm phù hợp với từng bệnh nhân và từng loại ung thư, các bác sĩ có thể xác định chính xác giai đoạn bệnh để đề ra phương án điều trị.

Dấu hiệu khẳng định ung thư vú giai đoạn cuối

Cấu trúc của tuyến vú phụ nữ

Cũng theo bác sĩ, các xét nghiệm và khảo sát để xác định giai đoạn ung thư vú có thể bao gồm: Xét nghiệm máu, xét nghiệm công thức máu toàn bộ. Chụp X-quang vú bên kia để tìm dấu hiệu ung thư. Chụp MRI vú, Xạ hình xương, Chụp cắt lớp vi tính (CT scan), Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET scan).

Không phải tất cả bệnh nhân đều cần tất cả các xét nghiệm và khảo sát này. Tùy từng bệnh nhân mà bác sĩ sẽ lựa chọn các xét nghiệm phù hợp trong từng trường hợp cụ thể, lưu ý đến các triệu chứng mới xuất hiện.

Các khối u không phải ung thư

Một khối u ở vú là tình trạng sưng cục bộ, nổi lên ở vú, có cảm giác khác với mô vú xung quanh nó hoặc mô vú ở cùng một vùng của vú kia. Ngực phụ nữ được cấu tạo bởi các loại mô khác nhau. Hai loại chính là tuyến vú tiết sữa và tuyến sữa.

Vú cũng chứa mô liên kết dạng sợi, mô mỡ, dây thần kinh, mạch máu và các hạch bạch huyết. Thành phần mô vú có thể thay đổi tùy theo chức năng. Ví dụ, trong thời kỳ cho con bú, ngực thay đổi. Vú cũng có thể thay đổi trong suốt chu kỳ hàng tháng.

Mỗi phần của vú có thể phản ứng theo những cách khác nhau. Những thay đổi này ảnh hưởng đến cảm giác và kết cấu của vú, ảnh hưởng đến sự phát triển của các khối u vú.

Vú có thể to hơn một chút ngay trước kỳ kinh nguyệt và có thể có cảm giác vón cục. Chúng cũng thay đổi khi mang thai và khi cho con bú. Một số loại khối u, chẳng hạn như u nang, rất phổ biến.

Các nguyên nhân có thể gây ra khối u ở vú bao gồm u nang, áp xe (có thể là dấu hiệu của nhiễm trùng như viêm vú), u sợi tuyến, u nhú nội mạc tử cung, u mỡ, hoại tử mỡ và ung thư vú. … Các triệu chứng có thể khác nhau tùy thuộc vào nguyên nhân của khối u.

U nang vú là một túi chứa đầy chất lỏng lành tính trong vú. Chúng thường xuất hiện ở phụ nữ trong độ tuổi từ 30 đến 50 và hiếm gặp sau khi mãn kinh.

Nó có thể không gây ra triệu chứng hoặc một số người có thể xuất hiện với một khối u mịn dưới da, gây đau và tiết dịch núm vú.

Nguyên nhân của u nang vú vẫn chưa được biết rõ, nhưng chúng có thể phát triển để đáp ứng với các kích thích tố liên quan đến kinh nguyệt.

Áp xe dễ dàng phát triển ở vú trong thời kỳ cho con bú. Chúng không phải là ung thư và thường do nhiễm trùng như viêm vú.

Áp-xe vú thường có biểu hiện sưng đau, sưng đỏ vùng da xung quanh, nóng vùng xung quanh ổ áp-xe, chảy dịch ở núm vú, sốt … Bác sĩ khám và điều trị ổ áp-xe, kiểm soát tình trạng sưng đau.

Dấu hiệu khẳng định ung thư vú giai đoạn cuối - Ảnh 3.

Muốn biết ung thư vú giai đoạn nào là quá trình xác định kích thước, vị trí và mức độ lan rộng của khối u.

U sợi tuyến là sự phát triển bất thường của mô tuyến trong vú. Là một khối u lành tính, có đặc điểm là một khối tròn, nhẵn, không đau. Các khối u xơ thường nhỏ lại và biến mất theo thời gian. Tuy nhiên, trong trường hợp khối u lớn, có thể phải phẫu thuật cắt bỏ.

U nhú trong ống dẫn tinh là một khối u lành tính. Chúng là những khối giống mụn cơm phát triển trong các ống dẫn sữa. Những khối u này thường tạo thành một khối tròn hoặc bầu dục, mọc dưới núm vú, tiết dịch trong hoặc có máu.

Hoại tử mỡ xảy ra khi các mô mỡ ở vú không nhận đủ oxy gây hoại tử. Nó có thể xảy ra sau khi phẫu thuật tái tạo vú, sinh thiết, … Chấn thương ở vú cũng có thể làm tổn thương các tế bào mỡ trong mô vú và gây hoại tử.

U mỡ (lipoma) là một trong những khối u lành tính phổ biến, phát triển từ các tế bào mỡ. Chúng thường mềm và tròn, không đau và có thể di chuyển nhẹ dưới da khi chạm vào. Lipoma có thể xảy ra ở bất cứ đâu trên cơ thể và thường không cần điều trị.

Khối u nghi ngờ ung thư

Một số người bị ung thư vú không có triệu chứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những thay đổi có thể bắt đầu trong giai đoạn đầu, bao gồm cả một khối u. Những thay đổi ở vú có thể là dấu hiệu của ung thư bao gồm:

Có một khối u hoặc dày lên trong mô vú. Những khối bất thường này có thể cố định hoặc di động, kích thước khác nhau và ranh giới có thể khó xác định, có thể đau hoặc không đau;

Đau vú, có thể không liên quan đến kỳ kinh của bạn hoặc đau ở một bên vú kéo dài;

thay đổi màu da vú, da chảy xệ hoặc nhăn nheo, da bị kích ứng, có vảy hoặc nổi gồ lên, da vú dày lên, da vú trở nên mềm, kèm theo đỏ và có thể đau; Núm vú bị kéo vào trong;

Tiết dịch hoặc chảy máu ở núm vú, kèm theo hoặc không đau, đặc biệt khi những bất thường này chỉ xuất hiện ở một bên vú.

Ung thư vú cũng có thể gây ra những thay đổi trong các hạch bạch huyết trong giai đoạn đầu, chẳng hạn như một khối u, sưng tấy hoặc dày lên xung quanh cánh tay, một khối u hoặc sưng tấy ở vùng xương đòn và dày da ở nách.

Sự liên quan đến hạch bạch huyết cũng có thể dẫn đến phát ban trên vú ở những người bị ung thư vú dạng viêm.

BSCKI Hoàng Trọng Điềm khuyến cáo, khi phát hiện một trong những dấu hiệu bất thường trên, người bệnh cần sớm đến cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám, làm các xét nghiệm chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *